Nội san

BÀI NỘI SAN

CHUYÊN MỤC: CÙNG TRAO ĐỔI VÀ NGHIÊN CỨU.

Ngày nay, nền giáo dục Việt Nam ta vẫn đang không ngừng đổi mới những phương pháp dạy và học giúp cho kết quả giáo dục ngày một tốt hơn. Chính vì thế mà nước ta đã thử nghiệm việc áp dụng những phương pháp tương tự như vậy thông qua việc học tập các phương pháp mới của một số nước có nền giáo dục tiên tiến. Một trong những phương pháp đáng được quan tâm hiện nay, đó chính là phương pháp “ bàn tay nặn bột”. Phương pháp bàn tay nặn bột là phương pháp học mới rất hay, tạo cảm giác hứng thú cho học sinh, giúp học sinh chủ động hơn trong việc học. Riêng đối với ngôi trường mà  tôi đang theo học-Trường TH Minh Hải, thì phương pháp “Bàn tay nặn bột” được chính thức đưa vào thí điểm ở một số lớp trong trường lớp trường tôi đã được chọn để dạy ở hai môn Khoa học và Tự nhiên xã hội.

“Bàn tay nặn bột” là phương pháp do Giáo sư Georger Charpak(người Pháp) sáng tạo ra, phát triển từ năm 1995, đã được vận dụng, phát triển và có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ ở Pháp mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Còn đối với Việt Nam đề án phương pháp “Bàn tay nặn bột” giai đoạn 2011-2015 được Bộ GD&ĐT triển khai thử nghiệm từ năm 2011 và chính thức triển khai trong các trường phổ thông từ năm học 2013-2014. Phương pháp bàn tay nặn bột là phương pháp tạo cho học sinh tích cực, chủ động trong học tập. Học sinh phải tự làm các thực nghiệm để tiếp thu các kiến thức khoa học, tiếp cận tri thức khoa học như một quá trình nghiên cứu của chính bản thân, cũng là phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho dạy các môn khoa học tự nhiên. Ở đây vai trò của người thầy không phải là truyền thụ những kiến thức khoa học dưới dạng thuyết trình, trình bày mà là giúp xây dựng kiến thức bằng cách cùng hành động với học sinh. Vai trò của học sinh là trung tâm, phải làm thí nghiệm tìm tòi để đưa ra câu trả lời cho các câu hỏi do chính bản thân mình đặt ra xoay quanh chủ đề của bài học hay những câu hỏi trong cuộc sống. Nhờ vậy, phương pháp này giúp cho học sinh rèn luyện được khả năng trình bày dưới dạng nói hay viết, tạo cảm giác hứng thú tò mò cho học sinh, phát triển năng lực tư duy, chủ động sáng tạo.

Được học hai môn học Khoa học và Tự nhiên xã hội dạy dưới phương pháp bàn tay nặn bột tôi thấy học bằng phương pháp này học sinh luôn chủ động, hứng thú trong lúc làm thí nghiệm, rất tò mò, thắc mắc về nhiều thứ tôi có thể giải đáp tất cả mà không phải ngại ngần như khi hỏi thầy cô. Tôi phải động não nhiều hơn, phải quan sát nhiều hơn để biết cách cẩn thận hơn trong lúc thí nghiệm, phải trình bày các câu trả lời mà mình vừa tìm ra một cách lôgic sao cho mọi người hiểu. Quan trọng hơn hết tôi luôn năng động trong các tiết như thế này, tôi không biết mệt, uể oải là gì. Hầu hết các đồng nghiệp đều cảm nhận giống tôi vậy, nhưng một đồng nghiệp lại cho rằng phương pháp này quá khó để các bạn học lực yếu theo kịp, các bạn chưa quen với việc hoạt động theo nhóm, còn luống cuống trong thí nghiệm, không biết cách trình bày lưu loát, lớp thiếu các thiết bị hỗ trợ như máy chiếu,...Bên cạnh đó phương pháp này còn một số hạn chế như: thiếu dụng cụ thí nghiệm, không có vật thật để quan sát, phòng học nhỏ khi mà một lớp có sĩ số quá đông ....

Qua đó cho thấy tiến trình dạy học theo phương pháp này gồm năm bước khác nhau, mỗi bước đóng một vai trò nhất định.

Gồm có: Bước một: tình huống xuất phát và nêu vấn đề. Ở bước này giáo viên sẽ đưa ra tình huống xuất phát như một cách dẫn dắt vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu với học sinh, nhằm  lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề, phải là câu hỏi mở gây mâu thuẫn kiến thức và kích thích cảm giác hứng thú .

Bước hai là bước bộc lộ quan điểm đầu tiên của học sinh:để hình thành các câu hỏi, là bước quan trọng đặc trưng của phương pháp này. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức cũ có liên quan đến kiến thức mới giúp học sinh bộc lộ quan điểm đầu tiên dưới dạng trình bày bằng lời nói, viết,...Qua đó rèn luyện kĩ năng trình bày của học sinh.Giáo viên cần chú ý đến những quan điểm sai của học sinh.

Bước ba: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm.Từ những câu hỏi của học sinh, giáo viên sẽ nêu câu hỏi cho học sinh đề nghị các em đề xuất thực nghiệm để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó. Giáo viên ghi chú các ý kiến để không trùng lặp. Khuyến khích học sinh tự đánh giá ý kiến cho nhau hơn là ý kiến của giáo viên nhận xét.Các câu hỏi xoáy sâu vào bài học.

Bước bốn: tiến hành thí nghiệm tìm tòi- nghiên cứu.Từ các phương án tìm tòi nghiên cứu mà học sinh nêu ra giáo viên khéo léo nhận xét lựa chọn dụng cụ thí nghiệm hay các thiết bị dạy học thích hợp để học sinh tiến hành nghiên cứu. Nếu phải làm thí nghiệm thì ưu tiên thí nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể tiến hành thí nghiệm trên vật thật có thể cho học sinh làm trên mô hình hoặc quan sát tranh vẽ, nên cho quan sát vật thật trước

Bước năm: Sau khi tiến hành thí nghiệm tìm tòi -nghiên cứu các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thiết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên những kiến thức này chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở như kiến thức bài học. Trước khi kết luận nên yêu cầu một vài ý kiến của học sinh bằng cách cho học sinh nhìn lại, đối chiếu lại quan niệm ban đầu. Như vậy những quan niệm ban đầu sai lệch chính học sinh tự phát hiện ra và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động giúp học sinh ghi nhớ lâu hơn.

      Nhờ có phương pháp học mới này mà học sinh của chúng tôi dễ hiểu bài hơn rất nhiều. Các bài học trở nên gần gũi, cụ thể chứ không mang tính chất trừu tượng chung chung khó hiểu như trước nữa.

     Mặc dù phương pháp này còn hạn chế nhưng nó rất có tính khả thi ,cái gì cũng có hai mặt, chúng ta phải nhìn thẳng vào thực tế quan sát những mặt ưu khuyết để phát huy, khắc phục và phải linh động hơn trong việc áp dụng phương pháp này để có thể đưa phương pháp này áp dụng rộng rãi trong nền giáo dục nước nhà. Đây cũng là mong ước của tôi cũng như là của các bạn đồng nghiệp giúp cho những mầm non của đất nước chúng ta phát triển một cách tốt nhất, đưa nước Việt Nam ta càng ngày càng vững mạnh, tươi đẹp.